Chủ Nhật, 21 tháng 7, 2013

“Thân cò” lặng lẽ...

Ngày dài bên máy

Phơi rau câu

Tiếng máy ù ù, chát chúa, xen lẫn tiếng hàng trăm con người đang nói chuyện, đang luận bàn, thậm chí cãi vã... Là đặc trưng chung của môi trường làm việc ở các phân xưởng, các khu công nghiệp. Mồ hôi nhễ nhại trong bộ đồng phục của các nhà máy như muốn tan rã theo cùng cái nắng chói chang của buổi trưa, trong những phân xưởng ngột ngạt, đôi khi thải vài ngọn khói đen sì lên trời xanh, như những con quái vật đồ sộ. Vậy mà họ vẫn chịu đựng, vẫn gắng gượng làm việc, mong kiếm một ít vốn về quê buôn bán, cho con ăn học. Họ là những người đàn bà đến từ khắp mọi nơi trên mảnh đất Quảng Nam, và một số vùng lân cận.

Sau gần 5 tiếng đồng hồ cho một buổi sáng làm việc, đến 12 giờ trưa, chuông reo báo hiệu giờ cơm và nghỉ ngơi, nhưng cả thảy chỉ vỏn vẹn trong vòng nửa tiếng đồng hồ! Ăn xong, bạ đâu nằm đấy, khi đôi mắt vừa khép bờ mi thì tiếng chuông báo hiệu vào giờ làm réo vang, khiến những người công nhân giật nảy mình thức giấc.

Mải miết cho đến 6 giờ chiều, thì tiếng chuông báo hiệu giờ tan ca. Họ mỏi mệt, lam lũ quay về với căn phòng trọ ngột ngạt, ảm đạm, với vài kẹp rau, gói mỳ cho qua bữa.

Đôi mắt thâm quầng, bộ mặt khắc khổ và xanh rớt, chị Võ Thị Xuân (32 tuổi, trú tại Đại Đồng, Đại Lộc, Quảng Nam) cho biết: “Quê nghèo, phải nuôi năm miệng ăn, nên tôi ra khu công nghiệp Điện Nam, Điện Ngọc để mưu sinh, làm công nhân giày da Rieker. Cuộc sống khó nhọc lắm. Tôi đi làm cả ngày, tối về mệt bã người. Nhiều lúc nhắm mắt xuôi tay lại thì nhớ đứa út, cháu mới được 8 tháng, tôi gửi bà ngoại để đi làm. Đến cuối tuần tôi mới về thăm cháu được”.

Năm nay mới 18 tuổi, cùng lứa với bao bạn đang ngồi trên ghế nhà trường, nhưng Lê Thị Ánh Hồng (Bình Dương, yên bình, Quảng Nam) đã làm mẹ của đứa trẻ đang còn lim dim ngủ trên tay. Hồng tâm sự: “Ở quê toàn là cát trắng, nên không trồng được gì chị ạ. Gia đình em đông quá, nên em nghỉ học sớm đi lấy chồng. Vừa sinh bé được mấy tháng, là ông xã em đi sang Nhật để xuất khẩu lao động. Em đi làm cả ngày, và gửi bé ở vườn trẻ. Tối về hai mẹ con nằm trong căn nhà trọ, nhiều khi khóc thầm. Một phần vì cuộc sống quá vất vả, một phần vì lo cho anh ấy ở xứ người. Nghe địa chấn, sóng thần hoài, em cứ sợ...”

Chị Lê Thị Thương (27 tuổi, thái hoà, Quảng Nam) lại là một cảnh ngộ khác. Chị cho biết: “Tốt nghiệp đại học kế toán ra trường, nhưng không xin được việc làm, nên tôi đành ra khu công nghiệp Điện Nam, Điện Ngọc làm thuê nhân. Nhiều lúc cũng tủi và buồn lắm. Nhưng biết thế nào bây chừ, dịp không đến, thì mình phải ưng ý thôi”.

Trong dây chuyền sinh sản giày

“Củng cố đời con”

Tôi đến Cẩm Thanh, nằm cách trọng điểm thành phố Hội An 3 km, vào một buổi sáng. Điều cuộn tôi nhiều nhất, là những người đàn bà đang xắn quần, ngâm mình trong nước để vớt rong câu trong ánh bình minh vừa ló rạng.

Sự khó nhọc, lam lũ, mệt mỏi luôn hiện hữu trên khuôn mặt khắc khổ và đôi mắt thâm quầng của họ. Tấm lưng cong vồng lên như muốn thách thức với mưa gió cuộc thế trên mọi nẻo đường mưu sinh. Đôi tay của họ lúc nào cũng thoăn thoắt trong hồ nước đục ngầu, để vớt những đám rong còn bám sát vào lòng hồ.

Một ngày vớt rong câu thường bắt đầu khi tiếng gà còn eo óc gáy, kết thúc khi chiều tà buông xuống vành nón. Họ lặng lẽ ra về khi thân mình ướt đầm lạnh lẽo, chỉ mong về nhà thật nhanh để sưởi ấm bên ánh lửa bập bùng cháy trong bếp.

Phần lớn những người đàn bà vớt rong câu là người Cẩm Thanh, và một số đàn bà ở vùng lân cận, vừa làm nông vừa tranh thủ làm mướn để kiếm thêm tiền trang trải trong gia đình.

Mỗi khi bắt đầu vào vụ tôm, rong câu thường mọc nhiều hơn. Từ một bụi nhỏ, sau đó chúng mọc nhanh lan tràn ra cả một vùng rộng lớn, trải dài từng đám. Cẩm Thanh là địa điểm du lịch sinh thái khá quyến rũ. Nằm ở vùng hạ lưu sông Thu Bồn, tiếp giáp với hải phận Cửa Đại, nên từ lâu Cẩm Thanh hợp với việc nuôi trồng thủy sản, tạo nên những “ngã ba”, “ngã tư” phù hợp để rong câu phát triển, mang lại kế sinh nhai cho nhiều người.

Thông thường, 1 kg rong câu khô có giá từ 65 - 70 nghìn đồng. Nhìn những bánh rong câu khô đang phơi trên khạp tre, cụ Lê Thị Tần (62 tuổi) cho biết: Mỗi ngày, tôi thường tranh thủ vào buổi sáng sớm ra các hồ tôm để vớt vài cân rong câu về phơi. Sau đó chế biến thành món “Xa Xa” gánh đến chợ bán kiếm thêm tiền, mua quà cho mấy đứa cháu. Mặc dầu hơi nặng nhọc, nhưng tôi coi đó là niềm vui của tuổi già.

Nghề vớt rong câu không phân biệt mùa mưa hay nắng. Có khi gió bấc về lạnh tê tái, có khi là những đợt nắng hè chói chang rám cả mặt người, những người đàn bà làm nghề này đều dầm mình dưới hồ tôm, để vớt từng bụi rong câu.

Chị Hà Thị Bé (36 tuổi) trú tại thôn 6, Cẩm Thanh cho biết: “Chồng chạy xe ôm, tôi vừa làm rau, vừa vớt rong thuê để kiếm tiền mua sách vở cho hai đứa con đang đi học. Làm thuê thì vất vả khỏi phải nói rồi, cả ngày phải dầm mình dưới mấy hồ nước nuôi tôm, nuôi cá, để vớt rong. Nước sạch thì không nói gì, chứ nước bẩn thì tối về ngứa ngáy không chịu nổi. Nhưng nhìn hai đứa con đang bi bô học bài, tôi vững dạ hẳn lên, và thầm nghĩ tôi quyết sẽ hi sinh đời bố mẹ để củng cố đời con. Tôi coi những đứa con tôi sau này sẽ thành đạt chứ không lầm lũi, vất vả như phận làm mướn của tôi”.

Vừa tranh thủ cắn vội miếng bánh, chị Bé vừa tâm can, ánh mắt nhìn ra hàng dừa Bảy Mẫu đang vi vu trong gió, như để kí thác những nỗi niềm bóng gió. Mỗi ngày vớt rong thuê được trả từ 100.000 - 120.000 đồng. Đôi lúc, số tiền đó chẳng nhằm nhò vào đâu so với mức chi tiêu của một người có đời sống khá giả, hay những người khách du lịch. Nhưng với những người nữ giới làm mướn, những phận người quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” thì đó là niềm vui, sự an ủi mà công sức họ đã bỏ ra.

Chia tay những “thân cò” lặng lẽ, tôi thầm cầu mong cho họ có được một ngày tươi sáng, một ngày bình yên, bớt đi gánh nặng mưu sinh...

Thanh Trâm


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét