Thứ Ba, 30 tháng 7, 2013

Một góc nhìn về căn do “hình sự hóa”?

Thực trạng này lên đường từ một số vụ việc nổi lên gần đây khi một số người đứng đầu doanh nghiệp bị cơ quan điều tra khởi tố, bắt tạm giam về các hành vi như lạm dụng, lừa đảo tín nhiệm cướp đoạt tài sản, dùng trái phép tài sản… mà duyên do ban đầu lại nảy từ tranh chấp dân sự hoặc kinh dinh thương mại.

Theo suy nghĩ của tôi, cách hiểu về “hình sự hóa” như dư luận lâu nay đề cập có nhẽ là chưa chính xác, bởi về mặt học lý, hình sự hóa là một quá trình trong đó các nhà lập pháp lượng định chính sách về hình phạt hay xác định loại hình phạt, khung hình phạt, điều kiện quyết định hình phạt đối với loại tù hãm này hay tầy khác nhằm biểu hiện thái độ, sự phản ứng của quốc gia đối với những hành vi xâm phạm các quan hệ tầng lớp được pháp luật hình sự bảo vệ, cũng như đường lối đánh giá, xử lý. Nó là một bộ phận của quá trình phi hình sự hóa, tội nhân hóa và phi phạm nhân hóa diễn ra đồng thời, tùy thuộc vào bối cảnh, sự phát triển của các quan hệ xã hội, phản ảnh chính sách hình sự của quốc gia ta. Bởi vậy, thực trạng bị coi là “hình sự hóa” thời kì qua thật ra chủ yếu chỉ là tình trạng nhận thức không đúng và sự lạm dụng quyền lực của các cơ quan chức năng bằng biện pháp tố tụng hình sự nhằm giải quyết các tranh chấp dân sự-thương nghiệp, thay vì các tranh chấp này phải được giải quyết duyệt y cơ chế tài phán Trọng tài hoặc Tòa án.

Tuy nhiên, trong số các quan điểm phát biểu tại buổi tọa đàm, tôi chú ý đến TS Phạm Duy Nghĩa ở Khoa Luật Trường Đại học Kinh tế TPHCM, có đề cập đến “nguồn cội” của thực trạng này có nhẽ xuất hành từ lịch sử lập pháp nước ta mà thành quả chính yếu chính là hình luật, ở đó đề đạt khuynh hướng người dân khi tranh chấp không giải quyết được với nhau thì thường phải cậy nhờ quan ải “cầm trượng” quất vào mông mà phán xử.

Tôi nghĩ cách tiếp cận này có một phần có lý của nó, bởi theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, lịch sử ghi nhận dòng chảy luật pháp thành văn của Việt Nam được đánh dấu kể từ công cuộc điển chế của các vua đời nhà Lý, mà miêu tả tụ tập nhất là sự ra đời của bộ “Hình thư”: “Trước kia, việc kiện tụng trong nước phiền hà, quan lại giữ pháp luật câu nệ luật văn, cốt làm cho hà khắc, thậm chí có người bị oan khiên quá đáng. Vua lấy làm yêu thương, sai trung thư san định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với thời thế, chia ra môn loại, biên thành điều khoản, làm thành sách Hình thư của một triều đại, để cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây phép xử án được bằng thẳng rõ ràng, thành thử mới đổi niên hiệu là Minh Đạo và đúc tiền Minh Đạo”.

Đời vua Lý Anh Tông, năm Bính Dần (1147), vua xuống Chiếu cho các Ty xử án xử phạt kẻ tranh chấp trái phép vào tháng 6 nhuận, trong đó quy định “kẻ nào tranh bậy không hợp điều luật pháp chế thì xử 60 trượng”. Lịch sử Việt Nam còn lưu giữ “Bộ luật Hồng Đức” (còn gọi là “Lê triều hình luật”) thời nhà Lê (1428-1788) với một ảnh hưởng sâu sắc trong sự phát triển của tầng lớp Việt Nam, cùng với nó là bộ “Quốc triều khám tụng điều lệ” như một cột mốc đầu tiên đánh dấu trong lịch sử lập pháp của Việt Nam có một bộ luật tố tụng biệt lập. Lý giải về vấn đề này, học giả Đào Duy Anh lập luận rằng: “Nhà lập pháp (thời quân chủ) chủ ý làm cho dân bớt kiện cáo, như gia tội những người chống án không căn cứ, cấm nghề thầy kiện, thầy cung. Sở dĩ có điều này là vì dân nhà quê ta rất hiếu tụng, đó cũng là một ảnh hưởng của nông nghiệp” (“Việt Nam văn hóa sử cương” - NXB Bốn Phương- Sài Gòn 1951- tr. 154).

Có nhẽ thực chất ưa “hiếu tụng” của người dân khởi nguồn từ nền văn minh lúa nước đã để lại một di sản tâm lý không dễ ngày càng khắc phục. Ngay cả các chủ doanh nghiệp khi giao dịch ghi rõ trong hợp đồng, thỏa thuận là nếu nảy tranh chấp mà không hòa giải, thương thuyết được thì sẽ được giải quyết tại Tòa án, vậy mà vẫn sẵn sàng làm đơn tố giác hình sự gửi đến các cơ quan tiến hành tố tụng. Thực trạng này phải chăng còn có một phần nguyên do, trong một chừng đỗi nào đó, Tòa án chưa trở nên địa chỉ tin để người dân, doanh nghiệp có khả năng tiếp cận với công lý, bởi hành trình tố tụng quá nhiêu khê không có điểm dừng, buộc lòng họ phải cậy nhờ biện pháp “hình sự hóa” để có thể giải quyết, mưu cầu ích một cách nhanh hơn?


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét