Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2013

Cẩm nang phòng trị bệnh gia súc, gia cầm

 Các cơ sở chăn nuôi và bà con nông dân đang “méo mặt” không chỉ với dịch lợn tai xanh mà còn phải đối phó với rất nhiều dịch bệnh khác của gia súc, gia cầm. Phòng trị bệnh gia súc, gia cầm đang là nỗi bận lòng hàng ngày. Là một chuyên gia uy tín trong lĩnh vực nông nghiệp, Phó GS-TS Lê Văn Năm đã có ba công trình khoa học xuất bản thành sách: "Bệnh gia súc Việt Nam", "Bệnh gia cầm Việt Nam - Bí quyết phòng trị bệnh hiệu quả cao" và "Bệnh lợn ở Việt Nam - Các biện pháp phòng trị bệnh hiệu quả". Được sự hợp tác nồng nhiệt của ông, Báo Điện tử đất nước mở mục: "Cẩm nang phòng trị bệnh gia súc gia cầm" trong chuyên mục "Thú y". Thời khoa học công nghệ thông tin phát triển như vũ bão, mạng internet vươn tới tận làng quê, hy vọng những nội dung hỏi, đáp về những bệnh quan yếu thường gặp, kể cả những bệnh mới xuất hiện, đặc biệt là qui trình dùng vắc xin và thuốc trong gian dịch bệnh gia súc gia cầm trên chuyên mục "Thú y" xuất bản thường kỳ của Báo Điện tử giang san, kể từ số ra bữa nay sẽ hữu dụng với bà con dân cày và các cán bộ kỹ thuật thú y đang làm việc ngoài thực địa. Xin cám ơn Phó GS-TS Lê Văn Năm và xin chuyển đến bà con dân cày: "Cẩm nang phòng trị bệnh gia súc gia cầm". 

 Các cơ sở chăn nuôi và bà con dân cày đang “méo mặt” không chỉ với dịch lợn tai xanh mà còn phải ứng phó với rất nhiều dịch bệnh khác của gia súc, gia cầm. Phòng trị bệnh gia súc, gia cầm đang là nỗi nhọc lòng hàng ngày. Là một chuyên gia uy tín trong lĩnh vực nông nghiệp, Phó GS-TS Lê Văn Năm đã có ba công trình khoa học xuất bản thành sách: "Bệnh gia súc Việt Nam", "Bệnh gia cầm Việt Nam - Bí quyết phòng trị bệnh hiệu quả cao" và "Bệnh lợn ở Việt Nam - Các biện pháp phòng trị bệnh hiệu quả". Được sự hiệp tác nhiệt thành của ông, Báo Điện tử giang san mở mục: "Cẩm nang phòng trị bệnh gia súc gia cầm" trong chuyên mục "Thú y". Thời khoa học công nghệ thông báo phát triển như vũ bão, mạng internet vươn tới tận làng quê, hy vọng những nội dung hỏi, đáp về những bệnh quan yếu thường gặp, kể cả những bệnh mới xuất hiện, đặc biệt là qui trình dùng vắc xin và thuốc trong gian dịch bệnh gia súc gia cầm trên chuyên mục "Thú y" xuất bản thường kỳ của Báo Điện tử giang san, kể từ số ra bữa nay sẽ hữu dụng với bà con dân cày và các cán bộ kỹ thuật thú y đang làm việc ngoài thực địa. Xin cám ơn Phó GS-TS Lê Văn Năm và xin chuyển đến bà con dân cày: "Cẩm nang phòng trị bệnh gia súc gia cầm". 

 BÁO ĐIỆN TỬ giang san 

 Chương I:Các bệnh do Virus gây ra ở gia súc, gia cầm. 

 thổ tả lợn 


1.
 Giới thiệu bệnh: 

thổ tả lợn là một trong4 bệnh đỏ lây nhiễm hiểm nhất ở lợn nuôi mà tổ chức dịch tế thế giới- OIE buộc toàn bộ các nước phải đặc biệt quan hoài và ban bố dịch nếu bệnh nổ ra. Bệnh có 5 thể miêu tả:

- Thể quá cấp tính đặc trưng với các miêu tả của nhiễm trùng huyết toàn thân kèm theo xuất huyết.

- Thế cấp tính và dưới cấp tính có các miêu tả đặc thù viêm phổi và viêm hoại tử ruột, kèm theo táo bón.

- ngoại giả thổ tả lợn cũng có 2 miêu tả nữa là kinh niên và không tiêu biểu.

2. Lịch sử bệnh: 

Bệnh thổ tả lợn được phát hiện trước nhất ở bang Ohio - Mỹ vào năm 1983. Nhưng đến năm 1905 Dorset, Bolton và Bryde mới xác định được nguyên do gây bệnh là do virus. Từ đó đến nay, thổ tả lợn lan tràn khắp năm châu lục và gây nhiều thiệt hại và kinh tế.

3. nguyên do gây bệnh: 

thổ tả lợn do một loại virus chứa ADN thuộc Rotavirus (Togaviridae) họ Flaviridae, nhóm Pestisvirrus, có màng lipit bọc, đường kính đến 50nm.

Virus thổ tả lợn rất mẫn cảm với Ete, Chloroform, nhưng khá vững bền với Trypsin.

Virus dễ bị diệt ở nhiệt độ cao trên 75 độ C, PVP iodine, Benzalkonium, Dezoxicholat Natri, nước vôi 10%, Formol 1-2% Phencol, Hyzol.

Khi vào thân thể lợn, virus di hành đến khắp nơi, có thể tồn tại và phát triển ở mọi cơ quan, mô tổ chức của thân thể.

Virus được đào thải ra môi trường bên ngoài qua các dịch bài xuất như nước đái, sữa, nước nhầy, nước mắt, nước miếng và phân.

Trong môi trường tự nhiên, ở nhiệt độ thấp dưới 10 độ C virus sống và giữ nguyên độc lực gây bệnh hàng tháng. Ở nhiệt độ thường nhật 18-30 độ C, chúng có thể sống nhiều tuần, nhưng dưới ánh sáng trực tiếp của thái dương thì chúng không tồn tại lâu hơn 10 giờ. Thuốc sát khuẩn hữu hiệu thường dùng hiện là PVP.iodine 10%, B.K.Vet, Formol 1,5-2%, Virkon.S….

4. Động vật thụ cảm: 

Virus thổ tả lợn chỉ có một chủng huyết thanh (1 serotyp) và chỉ gây bệnh cho lợn nhà và lợn rừng (hoang dại).

Lợn thả rông, lợn rừng có sức kháng bệnh cao gấp hàng trăm lần so với các giống lợn năng suất cao nuôi theo hình thức tụ tập công nghiệp.

5. Đặc điểm dịch tễ: 

Lợn ở mọi lứa tuổi đều dễ bị nhiễm virus, đặc biệt là lợn con lọt lòng không có kháng thể bị động từ sữa mẹ rất dễ bị bệnh và chết. Lợn mẹ được tiêm phòng 15- 30 ngày trước khi đẻ sẽ cho sữa đầu với hàm lượng kháng thể đặc hiệu cao có thể bảo hộ cho lợn con đến khi một hoặc hơn một tháng tuổi.

Bệnh xảy ra quanh năm nhưng ở Việt Nam bệnh thường thấy nhiều hơn vào vụ rét, mưa phùn gió bấc.

Nguồn bệnh hiểm nhất là lợn ốm và lợn chết do thổ tả lợn. Lợn khỏi bệnh thổ tả vẫn có thể đào thải virus cường độc một thời kì dài, tới 3 tháng.

Mầm bệnh có thể truyền từ lợn nái mang trùng sang bào thai và từ những lợn con sinh ra sẽ lây sang các ổ lợn con khác, rồi lan ra cả một trại lợn một cách bí hiểm. Đây cũng là nguyên do khó lý giải đối với các cán bộ chuyên môn khi bản thân họ đã thực hành đầy đủ các đề nghị, các giải pháp kỹ thuật phòng bệnh. bởi thế, họ sẽ không hiểu được vì sao thổ tả lợn lại có thể bùng nổ ở các trại, các cơ sở chăn nuôi công nghiệp đã rất nghiêm nhặt chấp hành các quy định và quy trình phòng bệnh bằng vắc xin.

Nguồn bệnh hiểm thứ hai là thịt và các chất thải, các sản phẩm chế biến từ lợn bệnh, các công cụ thiết bị, thức ăn, nước uống, môi trường bị nhiễm mầm bệnh.

Phương thức truyền nhiễm: Bệnh có thể lây lan bằng rất nhiều con đường như: hô hấp, ăn, uống, phối tinh, nhiễm qua da bị nứt nẻ, qua xúc tiếp trực tiếp lợn với lợn,hoạc gián tiếp qua công cụ thức ăn, hoặc do chó, mèo tha xương thịt từ các lợn bị chết do thổ tả ở nơi khác về...

Bệnh có tính dịch cao, lây lan nhanh và có nhiều hình thức miêu tả hoặc không miêu tả.

6. Cơ chế sinh bệnh: 

Từ những chỗ xâm nhập trước nhất (niêm mạc đường tiêu hóa, hô hấp, hạch Amidan, niêm mạc mắt hay da bị xước, bị thương…) virus thổ tả lợn sản xuất ngay trong các mô kết liên và sau đó lùa vào huyết mạch, di hành đến mọi nơi của thân thể lợn. Trong quá trình di hành, chúng sản sinh ngay trong các tế bào nội mô của thành huyết mạch, sau đó chúng được tiếp thu và bám dính trên bề mặt hồng huyết cầu, tiếp các đợt di hành mới và gây ra hiện tượng nhiễm trùng huyết, lợn sốt. Sự sinh sảnvà phát triển của virus thổ tả lợn trong các tế bào nôi mô của thành mạch dẫn đến thoái hóa, co mạch, tắc mạch và gây ra hiện tượng xuất huyết, hoại tử ở rất nhiều cơ quan như lách, thận, hạch lâm ba, ruột, bang quang..

Trong thực tại, có rất nhiều trường hợp lợn bị bệnh thổ tả luôn bị nhiễm trùng kế phát bởi các vi khuẩn thường trú trong thân thể:

-Khi bị bội nhiễm bởi vi khuẩn Pasteurella multocida thì luôn kèm theo các triệu chứng viêm phổi nặng hơn, rõ hơn.

-Khi bị bội nhiễm với Salmonella thì ngoài các biến đổi xuất huyết hoại tử trong các hạch lâm ba còn thấy viêm xuất huyết hoại tử ruột tạo ra các ổ loét hình xoáy trôn ốc gọi là Button của thổ tả và xen lẫn các ổ loét sâu có gờ trong đại tràng.

Cả hai trường hợp bội nhiễm trên luôn là nguyên do làm cho lách sưng to, dai và rắn hơn thường nhật.

Ngoài Salmonella và Pasteurella, lợn bị thổ tả cũng có thể bị bội nhiễm bởi vi khuẩn đóng dấu, tụ cầu, liên cầu, Clostridium, Bacterium pyocyaneum…

Một đặc tính mà virus thổ tả lơn gây ra nữa là giảm bạch huyết cầu huyết từ 11.000- 21.000 xuống dưới 9.000/ml máu, phá hủy hồng huyết cầu phóng thích hemoglobin và bilirubin gây vàng một số tổ chức, cơ quan.

Chưa hết, virus thổ tả lợn còn có khả năng xâm nhập vào bào thai làm chết bào thai ở lợn nái chửa hoặc lợn con sinh ra chết yểu hoặc nhựa sống kém. Hơn nữa những con lợn này lại mang mầm bệnh thổ tả lợn, do đó chúng là mối đe dọa hiểm đến an toàn sinh vật học cho cả trại.

7. Triệu chứng bệnh: 

- Thời kỷ ủ bệnh từ 2-6 ngày, rất ít khi quá 12 ngày.

- Bệnh có 5 thể miêu tả

7.1.Thể quá cấp

Bệnh xảy ra với các triệu chứng tiêu biểu của nhiễm trùng huyết: sốt cao 41-41,5 độ C, bỏ ăn, nằm run và lợn chết trong vòng 1-2 ngày.

7.2.Thể cấp tính

Các trình diễn.# nhiễm trùng huyết giống thể quá cấp nhưng ở chừng độ nhẹ hơn.

Lợn bị sối và thân nhiệt tăng từ từ. Từ 39 độ C lên 40.5 -41 độ C, rất ít khi vượt qua ngưỡng 41,5 độ C trừ khi bị bội nhiễm với vi khuẩn thứ phát. Trong thời kì thân nhiệt tăng lên cao như vây, lợn không có một trình diễn.# ốm nào (vẫn ăn uống thường ngày, đi lại, bài xuất có vẻ như thường ngày).

Sau 1-3 ngày, khi thân nhiệt đạt đến 40.5- 41 dộ C ta mới quan sát thấy lợn tìm chỗ tối để nằm, run rẩy, khó thở, nhịp thở tăng, thỉnh thoảng còn nghe thấy chúng nghiến răng. Khi đó, nếu ta xua đuổi lợn thì thấy chusngcos các trình diễn.# tâm thần, yếu phần sau,chân bị cứng trong bước đi. Quan sát kỹ thấy chảy nước mắt, tiếp đến mắt đỏ lừ có dử (viêm mí mắt), mũi khô, tai và đuôi lạnh. Đặc biệt cần biết là khi bị bệnh thổ tả, lợn lạnh đều hai tai và lạnh bao lăm thì đuôi lạnh bấy nhiêu.

Khi cho lợn ốm ăn, ta thấy chúng vẫn quầy quậy đuôi ra chậu cám để ăn, rất muốn ăn nhưng chỉ bóp bép vài miếng rồi bỏ đi, chúng không ăn cám mà chỉ thích ăn rau xanh hoặc thức ăn khác lạ.

Trong thời kì này, hồ hết các lợn ốm đều bị táo bón, phân có màng nhầy và có mùi đặc biệt. Tuy bị ốm, bỏ ăn nhưng lợn bệnh sút cân chậm, chúng canh cánh, hay nghiến răng và tìm nơi tĩnh nằm run.

Sau đó, xuất hiên các nốt xuất huyết ở phần da mềm như vùng tai, bẹn, bụng và háng. Xuất huyết do thổ tả lợn tinh khiết thường ở gốc tai (nếu bị ghép với Salmonella tức thị ghép phó thương hàn thì xuất hiên ở cả đỉnh, chỏm tai, rìa tai). Khi dùng ngón tay ấn mạnh để quan sát thì các nốt xuất huyết đỏ này mau chóng phục hồi sau vài giây tái nhợt. Đây là đặc điểm để phân biệt với đóng dấu lợn và tụ huyết trùng. Ít lâu sau, các nốt xuất huyết ở da chuyển sang màu đỏ thâm tím, hoại tử, tạo vẩy màu nâu.

Bệnh nặng dần lên, lợn ốm bắt đầu đi vẹo vọ, lúc nghiêng bên này, lúc ngả bên kia. Một số con bắt đầu bị đi tả, một số trường hợp còn thấy phân lẫn máu hoặc có màu thâm nâu cà phê, đuôi luôn thong và dính đầy phân. Lợn ốm chỉ nằm, bỏ ăn hoàn toàn và chết, tỷ lệ chết rất cao từ 80-100%.

7.3.Thể dưới cấp tính:

Ở thế dưới cấp tính các triệu chứng hội tụ ở đường tiêu hóa và hô hấp.

- Triệu chứng sốt dần dần giảm và duy trì ở mức 40,5-40,8 độC, lợn ốm lúc ăn lúc không.

- Lợn bị táo bón nặng, phân cso màng nhầy hoặc lúc táo bón lúc tiêu chảy.

- Chảy nhiều nước mắt, gương mũi khô, tai và đuôi đều lạnh và tím ngắt.

- Lợn ho và khó thở, lưng con và đau khi thở hoặc đau khi chúng ta sờ nắn.

- Da khô và quăn, long xù, lợn gầy sút trông thấy.

- Trên da thấy các đám xuất huyết chuyển thành vảy màu nâu.

- Nếu bội nhiễm với phó thương hàn thì da tím tái, mép và rìa tai bị hoại tử loét.

7.4.Thể mạn tính

Bệnh kéo dài từ một đến vài tuần và luôn kèm theo bệnh kế phát do một số vi khuẩn như Pasteurella (gây tụ huyết trùng), Salmonella (gây phó thương hàn), Straptococcus (gây liên cầu lợn), Pyocyaneus (gây hoại tử da). vì vậy, ngoài các triệu chứng nhiễm trùng huyết thì các trình diễn.# của thể mạn tính luôn kèm theo các triệu chứng viêm phổi và triệu chứng của bệnh thứ phát.

Lợn ốm xù long, giảm cân, lúc đi tả, lúc táo bón kèm theo màng nhầy. Lợn ốm ăn uống bất thường, hay tìm chỗ tối để nằm, rúc đầu vào rơm rạ (chất độn), sốt nhẹ và đứt quãng 40-40,5 độ C.

Bụng đói hóp hông, đi choạng vạng, vẹo vọ, mắt có dử, thậm chí chảy mủ (ken mắt), tím tái mõm và tai, lạnh đều cả hai tai và đuôi. Đuôi buông thõng. Tiêm kháng sinh thì hết sốt, lợn thèm ăn, ngừng tiêm kháng sinh lại sốt nhẹ 40 độ C và lại bỏ ăn. Một số con gầy dần và chết do hư nhược, phần nhiều số còn lại dần dần khỏi bệnh và mang trùng, Lợn nái mang trùng thường bị sảy thai ở mọi thời kỳ trong thời kì chửa.

7.5.Thể không tiêu biểu

Đây là dạng ẩn của thổ tả lợn, thường xảy ra ở các trại đã được tiêm phòng cho lợn con trước 30 ngày tuổi hoặc đã qua dịch một đôi năm.

Các triệu chứng đốn ở đàn nái là sảy thai, chết lưu thai, đẻ non hoặc chết yểu trong thời kì 3-4 tuần sau khi sinh.

Lợn con sinh ra từ những nái mang trùng này lúc đầu béo tốt, bú đều nhưng dần đàn chúng có các trình diễn.# run rẩy, thiếu linh hoạt, chậm lớn, xù long, còi cọc và chết ở 4-5 tuần sau khi sinh. Lợn mẹ lúc đầu cũng tiết sữa thường ngày, nhưng lúc ăn, lúc bỏ ăn, do sốt nhẹ và đứt quãng nên không chăm con như nái thường ngày.

Trong thực tiễn sinh sản ở Việt Nam, không ít trường hợp trong cùng một trại lợn có thể xuất hiện song hành hai thể bệnh thổ tả lợn cấp tính và không tiêu biểu.

8. Chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt 

Bệnh thổ tả lợn có thể chẩn đoán dễ dàng duyệt các dấu hiệu dịch tễ, lâm sàng, bệnh tích. Nếu cần thì có thẻ tiến hành gây bệnh thực nghiệm trên lợn, thỏ.

Các phương pháp chẩn đoán trong phòng thí điểm gồm: Xét nghiệm máu, miễn nhiễm huỳnh quanh, Kết tủa trên thạch.

Bệnh thổ tả lợn cần phải phân biệt với các bệnh sau:

- Bệnh phí thương hàn

- Bệnh đóng dấu

- Bệnh tụ huyết trùng

- Bệnh giả dại

9. Điều trị: 

Bệnh thổ tả là một trong 4 bệnh hiểm nguy nhất mà thế giới khuyến cáo không nên điều trị, nếu điều trị thì có một số lợn ốm khỏi bệnh, nhưng chúng sẽ mang trùng trong vòng 3 tháng và trở nên nguồn bệnh tiềm ẩn, Do đó, khi phát hiện ra thổ tả lợn cần phải tiêu hủy tận gốc.

Ở Việt Nam, do lợi. kinh tế trước mắt nên có nhiều nông trại không tiêu hủy mà họ vẫn vận dụng biện pháp như sau:

- Tách lợn con theo mẹ nuôi cách ly và tiêm phòng cho chúng ngay sau khi được 35 ngày tuổi.

- Tiêm vắc xin chống thổ tả lợn cho tất tật lợn còn lại từ 35 ngày tuổi trở lên mà không phụ thuộc vào tình trạng lợn và chương trình tiêm phòng vắc xin trước đó.

- Tiêm kháng sinh và thuốc bổ cho những con lợn bị sốt từ 40 – 41,5 độ C và sau 3-4 ngày nếu không chuyển biến thì mới loại thải.

để ý: + Mỗi ô chuồng phải dùng một kim tiêm riêng.

+ Thuốc kháng sinh gồm những thuốc có phổ tác dụng rộng và điều trị tốt với phó thương hàng. Các loại kháng sinh đó là: Macavet, Flodonvet. TTS Năm Thái, Vidan.T…

+ Cần cung cấp thêm thuốc bổ như: T.cúm gia súc, Doxyvit hoặc Super vitamin.

10. Phòng bệnh: 

Phòng bệnh thổ tả lợn gồm các bước sau đây:

- Vệ sinh thú y chặt đẹp.

- Cách ly, theo dõi, tiêm phòng thổ tả lợn đối với lợn mới mua về ít ra 15 ngày trước khi nhập đàn. Chỉ nhập lợn khỏe không sốt, không có dử mắt, không bị viêm phổi..

- Tổ chức chăn nuôi trong nông trại hợp lý theo lứa tuổi và hướng chăn nuôi đã định, không nuôi chung lợn các lứa tuổi khác nhau.

- Đnh kỳ vô trùng tiêu độc bằng PVP.iodine, B.K.Vet, Virkon.S, Formol 1,5%...

- Tiêm phòng vắc xin thổ tả lần 1 cho tất tật lợn sau 1 tháng tuổi, tiêm nhắc lại lần 2 lúc 55-60 ngày tuổi. Sau đó cứ mỗi năm tiêm định kỳ hai lần vào tháng 4 và tháng 10 và không quên tiêm vắc xin bổ sung cho những lợn nái đẻ và con của chúng đến ngày phải tiêm theo chương trình phòng bệnh.

Việc khống chế thổ tả lợn sẽ thành công nếu chúng ta vận dụng đầy đủ các biện pháp an toàn sinh vật học, vệ sinh thú y và tiêm gian thổ tả đúng quy trình cho mỗi đối tượng lợn./

  (Kỳ sau: bệnh thổ tả Lợn Châu Phi)   . 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét