Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2013

Nữ thi sĩ và con mèo tam thể

Bà Thuận và chú mèo tam thể - người bạn luôn gần gũi giúp bà vơi đi nỗi buồn.

Khát vọng giao cảm

Do đôi tay đã bị co quắp lại, nên muốn cầm cốc nước, bà Thuận phải dùng cả hai tay quặp lại, tạo thành “gọng kìm” để kẹp lấy. Phải rứa lắm tôi mới nghe trọn được câu chuyện, bởi giọng nói của bà rất khó nghe. Bệnh thần kinh teo cơ khiến dây thanh quản bị chèn ép, làm giọng bà bị biến dạng, không tròn vành như người thông thường. “Lúc đầu còn động đậy đi lại được, nên dù nặng nhọc, tôi vẫn ráng ngoi ngóp nhờ bạn, nhờ người thân trợ giúp đến trường, không vắng buổi học nào. Nhưng càng lớn, các cơ bắp càng teo đi, tứ chi cứ hao dần, khiến đi lại đối với tôi chẳng khác gì cực hình”.

Bà được bác mẹ đưa đi chạy chữa khắp nơi và rốt cuộc hy vọng sụp đổ, khi các thầy thuốc ở Bệnh viện Bạch Mai kết luận đây là một căn bệnh thế giới chưa tìm ra thuốc chữa. Đấy là thời khắc năm 1974. Vô vọng, cô bé Thuận chẳng thiết gì đến học cấp III nữa, sự học bị đứt gánh. “Cái mặc cảm “chuông khánh còn chẳng ăn ai”, huống chi là người khuyết tật như mình đã giam tôi trong bốn bức tường.

Có thời gian tôi chỉ biết khóc”. Chính vì tâm trạng tiêu cực ấy khiến bà ít vận động hơn, lại làm căn bệnh trầm trọng hơn, để rồi sau đó không lâu, khi mới tuổi 20, bà không thể tự đi, mà phải làm bạn với chiếc giường. Thế giới của bà - từ đó - chỉ xoay quanh chiếc giường, trong căn phòng gần như lúc nào cũng đóng cửa. Nỗi buồn có nhẽ đã giết chết bà, nếu bà không có khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng được giao cảm với cuộc thế bên ngoài bằng những dòng thơ chắt chiu từ cuộc sống đắng chát của mình.

Đôi cánh thơ

Bà kể chuyện mình tự đánh tháo khỏi cái vỏ ốc ủ dột: “Một lần đọc báo, có bài chuyện trò của nguyên Tổng bí thơ Nguyễn Văn Linh tại Hội nghị thanh niên toàn quốc, tôi không nhớ năm nào, trong đó có một câu làm tôi thức tỉnh: Mỗi chúng ta hãy tự cứu mình, trước khi trời cứu. Tôi trằn trọc đêm ngày với câu nói đó, tự nhìn lại mình với chút sức khỏe còn lại và vốn kiến thức ít ỏi học được ở nhà trường.

Mình sẽ làm gì để tự cứu mình?”. Bà kể: “Việc trước tiên là tôi ghi lại cảm xúc của mình về thiên nhiên, gia đình, bè bạn. Những vần thơ lục bát, những mẩu truyện ngắn, những đoạn tản văn cứ thế lần lượt hiện ra. Thơ làm cho riêng mình, để mình đỡ buồn nản, cùng lắm là đọc để bè bạn nghe cho vui, chứ chẳng nghĩ đến rằng mình sẽ thành nhà thơ”. Thế nhưng, bạn bè của bà thì nghĩ trái lại. Một người bạn của bà “lén lút” gửi thơ của bà lên Báo thái hoà. Đến khi bài thơ được đăng, bà mừng phát khóc.

Từ đó, thơ, văn đã đưa trí nhớ tượng của bà đi khắp mọi nơi, và nhất là đã mang lại cho bà nhiều bạn bè ở mọi miền giang san. Năm 1981, sau khi bài ký viết về chính bản thân mình đăng trên báo Tiền Phong, bà nhận thư sẻ chia đồng cảm của nhiều người. Sự sẻ chia, đồng cảm đó khiến bà mạnh mẽ lên rất nhiều, khiến bà càng ham hơn với chữ nghĩa. Những câu thơ, câu văn cứ thế nhọc nhằn hiện lên. Năm 1984, bà đã đạt được thành công lớn. Nhà xuất bản Kim Đồng và Hội Nhà văn Việt Nam đã trao tặng giải B cho tập truyện ngắn đầu tay của bà viết cho các em thiếu nhi mang tiêu đề “Làm chị”.

Cùng năm đó, bà được vinh diệu thu nhận vào Hội Nhà văn yên bình. Đến nay, ngoài tập truyện ngắn trên, bà đã xuất bản được 3 tập thơ, đó là “Sợi nắng mong manh”; “Đi tự tim mình” và “Tình bạn, tình thơ”. Bà cũng đã đạt được nhiều giải thưởng về văn thơ khác, được UBND tỉnh tặng bằng khen... Nhưng, “giải thưởng lớn nhất là tình cảm của mọi người đã dành cho tôi. Có nhiều bè bạn, khiến thôi thấy mình đáng sống hơn rất nhiều lần. Nhờ thơ mà có lần tôi được các bạn văn, thơ ở Hội Văn nghệ Lạng Sơn “di dời” tôi ra khỏi chiếc giường để được lên xứ Lạng giao lưu với mọi người, cảm nhận tình cảm thật tình mọi người dành cho mình, được chu du sơn thủy, mở mang tầm mắt...”.

Thơ đã tạo ra một bầu khí quyển bao bọc quanh bà, để bà được hít thở, được cảm nhận cuộc sống bằng ắt cảm quan của mình. Đọc thơ bà, tôi cảm nhận được một tâm hồn đa cảm, tinh tế, khát khao được thương xót và mở mang lòng mình để thương mọi người. Trong bài “Anh - em và thơ”, bà kể về chuyện một “anh” cứ liên tiếp giục “em” viết thơ, viết về cánh đồng, viết về những dòng sông..., Để rồi, ở hai câu cuối, “em” như muốn hờn giận: “Chỉ giục em thôi, anh đâu có biết/Quên giục trái tim mình thiết tha với tình em”. Bà tự viết về “Tôi”: “Tôi sinh ra ở trên đời/Tuổi thơ đã chịu bùi ngùi đau thương/Bạn bè lặn ngụp gió sương/Còn tôi trong bốn bức tường lặng im/Gia tài chỉ có con tim/Và đôi mắt với cái nhìn thèm khát/Mở hồn cho nắng ùa vào/Chim vui đến hát xôn xao thành vườn/Tôi thầm nhận thấy mùi hương/Và tôi cũng thấy đau thương nguôi dần/Tôi đi xa, tôi về gần/Thơ cho tôi - những đôi chân tuyệt vời”.

Thơ và...Cửa hàng tạp hóa

Dù trực tính gửi thơ, văn tới các báo, nhưng những đồng nhuận bút còm cõi, hẳn nhiên không đủ để trang trải cho cuộc sống. Nguồn thu đốn của bà là cái quán tạp hóa, và cũng là nơi ở của bà. Bà kể, hồi còn bé, bà vốn ác cảm với cái nghề “đo lọ nước mắm, đếm củ dưa hành” này lắm, nhưng hình như ông trời đã định sẵn, gắn chặt bà với cái nghề buôn bán.

Những lúc rảnh rỗi, bà Thuận thường đọc sách, báo để trau dồi thêm cho ngòi bút của mình.

Chuyện là, năm 1988, bà đi thăm một nhà văn ở huyện Tiền Hải. Nhà văn khuyên bà mở cửa hàng để tự kiếm sống, đồng thời có nhịp xúc tiếp với mọi người, có vốn sống để viết. Bà nghe lời khuyên ấy, về loay hoay tìm nơi để mở tiệm. Thông cảm với cảnh ngộ của bà, hiệp tác xã đã cho mượn gian nhà đang bỏ trống. Thế rồi, bà trở thành “cô chủ nhỏ”, mở dịch vụ thuê truyện, bán những đồ nhỏ nhặt cho trẻ thơ. Sau đó, gian nhà này đã được hóa giá cho bà. Rồi khi chế độ bao cấp không còn, bà mở mang mặt hàng nhiều hơn, gia cố lại căn nhà cho kiên cố. Cứ thế, túc tắc buôn bán đã được hàng chục năm...

Đến giờ, bà Thuận vẫn không chồng, không con. Gần gụi nhất với bà là cô em gái Nguyễn Thị Thục ở cùng với bà và chú mèo tam thể. Bà Thục cũng bị căn bệnh quỷ quái như chị mình, nhưng vẫn có thể đi lại được, tuy rất khó khăn. Bà đảm nhận đun nấu, chăm sóc vệ sinh cá nhân cho chị mình, bởi bà Thuận chẳng thể tự làm những công việc này. Chiếc giường cũng là “nhà bếp” của hai chị em.

Hệ thống ống nước được thiết kế ngay cạnh giường, nên bà Thục nhặt rau, rồi rửa rau ngay trên giường. Một chiếc nồi cơm điện cũ đã rơi mất cái nắp được tận dụng làm tuốt luốt các món, từ kho, luộc đến xào... Và dĩ nhiên, cũng là ở trên giường. Hằng sáng, hai chị em nhờ bà con chòm xóm mua hộ thịt, rau... Đủ dùng cho cả ngày. Chiều tối, ngồi ăn cơm với hai bà, tôi đã chẳng thể nén lòng mình khi thấy hai người không thể dùng đũa mà phải dùng thìa xúc, nhiều khi mãi mà không vớt được miếng rau nào vào bát...

Bữa cơm tối chớp nhoáng trôi qua. Đang chuyện trò, đột bà Thuận ngồi thừ người ra, chẳng nói gì nữa. Căn phòng trở thành im ắng, chỉ còn tiếng loạt soạt của chú mèo tam thể cọ móng vào chiếu. Chú đang rướn người, ra chừng sảng khoái sau bữa ăn ngon. Thực hiện xong “động tác thể dục nhẹ”, chú lẹ làng chui vào lòng bà chủ để nằm. Ánh mắt bà Thuận vẫn nhìn ra cửa sổ, ngoài đó, bầu trời đã chuyển sang màu tối sẫm; còn cả hai tay thì khẽ khàng gãi nhẹ vào gáy chú mèo. Tôi bất giác nghĩ: có nhẽ "họ" lại sắp bắt đầu lui vào thế giới riêng tư cố hữu. Và tôi đứng lên...
Mơ ước một máy tính nối mạng...

Giờ, bà vẫn viết thơ, tày tay. Bà bảo, mong muốn của mình là có một bộ máy tính nối mạng để vừa lên Internet thu thập thông tin, có vốn sống hơn cho ngòi bút của mình; cũng như tiện lợi hơn tinh khiết tác và gửi bài vở bằng thư điện tử hiệp tác cho các báo. Đôi chân của bà không đi được xa, giờ bà chỉ mong mình mở rộng tầm mắt, làm giàu thêm vốn sống bằng cách ấy mà thôi... Đoàn Tất Thảo


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét