Thứ Năm, 18 tháng 7, 2013
Ngành Than tính chuyện tăng giá
-PV: Xin ông cho biết những sức ép của ngành than khi thuế suất thuế xuất khẩu than chính thức tăng từ 7/7/2013 ? - Ông Nguyễn Văn Biên : Với mức thuế 10% thì nhiều chủng loại than của Việt Nam khi xuất khẩu không có lãi, chỉ đủ bù đắp phí tổn sinh sản.
Ông Nguyễn Văn Biên
Từ 7/7, khi thuế xuất khẩu than tăng lên 13% thì nhiều chủng loại than phải dừng xuất khẩu hoặc chỉ xuất khẩu cho những khách hàng bán buôn, với số lượng ít. Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến tổng sản lượng tiêu thụ than cả năm, dự định chỉ xuất khẩu hơn 10 triệu tấn, giảm 4 triệu tấn so với năm 2012; làm gia tăng thêm khó khăn trong việc cân đối tài chính của ngành; có nguy cơ mất nhiều thị trường bán than xuất khẩu. Ngoại giả, khi sản lượng giảm thì các loại thuế tài nguyên, phí môi trường, thuế Giá trị gia tăng (GTGT), thuế xuất khẩu đóng cho nhà nước cũng giảm mạnh. - Việc tăng thuế xuất khẩu than có phải là nguyên do khiến cho ngành Than đấu đề nghị tăng giá bán cho ngành Điện, thưa ông? Sau khi được điều chỉnh giá bán than cho điện từ ngày 20/4/2013 thì giá bán than cho điện giờ cũng chỉ bằng 85-87% giá thành kế hoạch năm 2013 (tùy từng chủng loại). Như vậy, theo kế hoạch năm 2013 mà các bộ đã soát và cân đối tài chính của Vinacomin năm 2013 với điều kiện giá than cho điện được điều chỉnh từ ngày 01/01/2013, thuế xuất khẩu than là 10%, thì việc điều chỉnh này chậm 3 tháng 20 ngày. Không những vậy, Vinacomin đã phải bù giá than cho ngành Điện trên 1.800 tỷ đồng do sản lượng than tiêu thụ cho điện những tháng đầu năm tăng cao. Trong khi đó, việc khai hoang than càng ngày càng khó khăn hơn. Các mỏ hầm lò càng ngày càng xuống sâu, có nơi độ sâu dưới -300 m so với mặt nước biển, áp lực mỏ lớn, nguy cơ về bục nước, cháy nổ, sập lò cao hơn; các mỏ lộ thiên hệ số bóc đất cao (phải nổ mìn bóc trên 11 m3 mới lấy được 1 tấn than, cung độ chuyên chở đất đá trên 4 km); các phí về dò hỏi, thoát nước, thông gió, an toàn bảo hộ lao động... Cũng tăng theo. Vinacomin đã có nhiều biện pháp tăng năng suất, giảm giá thành, thậm chí từ năm 2012, 2013 đã phải giảm tiền lương, cắt giảm biên chế nhiều bộ phận (trừ thợ lò vì còn thiếu), chọn nơi tiện lợi hơn để khai khẩn trước nhằm giảm giá thành, tiêu thụ được than. Nhưng, những biện pháp này chỉ mang tính trợ thì, nếu kéo dài sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững theo Quy hoạch của ngành Than, nguy cơ thiếu lao động cho sinh sản, cơ sở hạ tầng, môi trường,...Bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó, các loại thuế, phí liên tục điều chỉnh tăng làm cho tổng chi phí trong giá thành tăng. Riêng thuế tài nguyên đối với than tăng từ 230 tỷ đồng năm 2007 lên 3.120 tỷ đồng năm 2012 (gấp 13,5 lần do tăng thuế suất từ 1-2% lên 5-7% và tăng giá tính thuế); Từ năm 2012 bổ sung thuế môi trường 20.000 đ/tấn, phí môi trường địa phương thu tăng từ 6.000 lên 10.000 đồng/tấn. Về hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với than xuất khẩu: Từ năm 2008 trở về trước (10 năm liền) than xuất khẩu được hoàn thuế GTGT; từ năm 2009 không được hoàn thuế GTGT đầu vào, lăm tăng uổng khoảng 150 ngàn đồng/tấn than xuất khẩu; thuế xuất khẩu than 10% hiện giờ thuộc nhóm nước có thuế suất cao nhất thế giới. Vì vậy, việc điều chỉnh giá than cho điện là theo lộ trình đã được các bộ, ngành và Chính phủ coi xét, xác định từ nhiều năm nay nhằm để bảo đảm ngành Than bù đắp hoài, tiến tới có lãi để đầu tư phát triển. Việc tăng thuế xuất khẩu nhiều chủng loại than sẽ làm tăng giá bán ứng để sau khi trừ thuế ngành Than không bị lỗ. Do đó, sản lượng than tiêu thụ sẽ bị giảm mạnh. Điều này sẽ dẫn tới các khó khăn như nêu ở trên, chứ không phải là duyên do đề nghị tăng giá than cho điện. -Ông có lo ngại những hiệu ứng từ trong dư luận khi nhiều doanh nghiệp lớn cùng tăng giá bán sản phẩm đầu ra trong bối cảnh kinh tế còn nhiều khó khăn? Việc điều chỉnh giá bán điện còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố tác động theo từng thời khắc, không chỉ riêng giá bán than cho điện. Do đó, cũng không khăng khăng phải gắn điều chỉnh ngay giá điện, giá than cùng với nhau. Hơn nữa, thời khắc điều chỉnh giá than, giá điện, các Bộ còn xem xét và bảo đảm cân đối chung hợp cho từng ngành nhằm không gây tác động xấu đến thị trường cũng như nền kinh tế.
Xin cảm ơn ông!
Theo Quy hoạch phát triển ngành Than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ thông qua tại Quyết định số 60/QĐ-TTg ngày 9/1/2012, thì nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển các mỏ than rất lớn. Riêng nhu cầu vốn đầu tư cho than hiện thời là 22.000 - 25.000 tỷ đồng/năm. Trong khi đó, điều kiện khai thác than của Việt Nam giờ thuộc loại khó khăn, các loại thuế phí thì cao, giá bán than cho ngành điện trong những năm qua vẫn còn thấp hơn giá thành./.
Phong Anh
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét